Nước Liêu là nước nào? (1 người xem)

Liên hệ QC

Người dùng đang xem chủ đề này

anhtuan1066

Thành viên gạo cội
Tham gia
10/3/07
Bài viết
5,802
Được thích
6,912
Xin lổi, tôi ko biết hỏi câu này vào mục nào là đúng, vì nó chẳng có liên quan gì đến tin học lẩn Excel.. nhưng thắc mắc lâu rồi mà ko biết tìm lời giãi đáp ở đâu, đành post lên, hy vọng ai đó rành về địa lý, lịch sử có thể giãi đáp hộ!
Số là tôi xem phim trên TV, thấy có vài phim thể loại lịch sử (Trung Quốc) hay có nhắc đến nước Liêu... Tôi phân vân quá, ko biết nước Liêu ấy là nước nào? Bây giờ nó thuộc lảnh thổ của nước nào?
Xin các học giả chỉ giáo giúp!
ANH TUẤN
 
Em chỉ biết Liêu Quốc còn gọi là Tây Liêu nằm ở tây bắc nước Tống (Thời Bắc Tống) bên Trung Quốc do người Khiết Đan cai quản (Họ Gia Luật) Sau đổi thành nước Kim do (Họ Hoàng Nhan) cai quản rồi đến thời Thành Cát Tư Hãn (Mông cổ) chiếm cứ ....
Bây giờ chắc thuộc lãnh thổ Trung Quốc rồi.
Bác định đi du lịch nước Liêu sao vậy hic hic ...

Bác vào đây nghiêm cứu thêm nhé.
 
Lần chỉnh sửa cuối:
- Sau khi nhà Đường sụp đổ, TQuốc bước vào một thời kỳ lịch sử đầy biến động gọi là thời Ngũ Đại Thập Quốc (907-960). Ngoài 5 triều đại ở phía Bắc (Ngũ Đại) và 10 nước ở phía Nam (Thập Quốc), còn có một đế chế do người Khiết Đan gốc Mông Cổ thành lập vào những năm cuối đời Đường gọi là nước Đại Liêu. Nhà Liêu có vùng lãnh thổ rộng lớn từ Mãn Châu tới phần đông của cao nguyên Mông cổ. Nhà Liêu bị nhà Kim thôn tính vào năm 1125. Con cháu nhà Liêu chạy đến vùng Trung Á thành lập nước Tây Liêu. Nước Tây Liêu tồn tại đến 1220 thì bị Thành Cát Tư Hãn tiêu diệt.
 
Vậy thì nước Liêu hồi đó, bây giờ thuộc lảnh thổ Trung Quốc hay Mông Cổ vậy các thầy ơi!
ANH TUẤN
 
-Ban đầu nước Liêu thuộc cao nguyên Mông Cổ, sau đó nhà Liêu tiêu diệt vương quốc Bột Hải của người Triều Tiên ở Mãn Châu để mở rộng đất đai. Đến triều đại thứ hai Da Luật Đức Quang, nhà Liêu lấy thêm của nhà Hậu Tấn 16 châu vùng Yên Vân thuộc trung nguyên. Bờ cõi mở rộng đến tận Bắc Kinh ngày nay.
 
Cảm ơn thầy Voda... vậy mà từ đó giờ hỏng biết.. Search trên Google nó nói cái gì đâu ko...
Sẳn đây thầy cho hỏi luôn: Nước Kim có phải là Hàn Quốc bây giờ ko vậy? (Tại thấy người HQ họ Kim nhiều quá nên đoán vậy!)
ANH TUẤN
 
Hic, vậy nước USA hồi xưa là nước Smith , nước Pháp là nước Bourgone, ....
anhtuan ơi là anhtuan!

Nước Hàn xưa, hồi phong kiến đọc theo tiếng Hán Việt là Cao Ly. Hồi đánh Mỹ gọi là Đại hàn, chia đôi ra là Nam Hàn, Bắc Hàn. Nhưng ngoài Bắc mình gọi là Nam Triều Tiên, Bắc Triều Tiên.
Bây giờ gọi Hàn Quốc và Triều Tiên là sai, vì gốc là 1 phải gọi cùng tên.

Nhớ trong dã sử VN, Mạc Đĩnh Chi đi sứ sang Tàu, thi làm thơ với sứ thần các nước trong đó có sứ Cao Ly.
Còn nhiều danh nhân VN đi sứ sang Tàu thi với sứ các nước lắm, không nhớ hết.

Còn nước Kim cũng là 1 nước nhỏ như nước Liêu thôi. Sau bị Mông cổ thôn tính và thuộc nước Tàu bi giờ.
 
Thông cảm... ngu mấy môn khoa học xã hội nên mới hỏi mà đại ca... nhưng dù sao thấy mình cũng còn đở hơn mấy em cháu học bây giờ... Cô hỏi "Sau khi dẹp tan 12 sứ quân, ai lên ngôi hoàng đế..." Hắn bảo: "Đó chính là Ông.. Bèn..." .... he... he...
Cảm ơn các đại ca nhiều nhiều... Vài bửa nhớ ra cái gì sẽ hỏi tiếp
ANH TUẤN
 
Lần chỉnh sửa cuối:
them thông tin một chút về nước Liêu (siu tầm from Internet)

Đây là bản đồ nước Liêu (Khiết Đan) (355 kb)
http://huhai.myrice.com/map/28(liao)l.jpg

Trong bản đồ này, nước Liêu được chia làm 5 phần dưới quyền của năm kinh: Thượng Kinh, Trung Kinh (Đại Định), Tây Kinh (Đại Đồng), Nam Kinh, Đông Kinh (Liêu Dương). Ngoài năm vùng đất này còn có những vùng phụ thuộc của các dân tộc thiểu số khác, trong đó có người Nữ Chân.

Trong bản đồ này, vùng đất phía đông bắc của nước Liêu, phía trên đất Pohai (Bột Hải), nơi có ghi "Ju-chi = Juchen" chính là vùng đất của người Nữ Chân (Jurchen). Vùng đất này nằm bên song Hắc Long Giang (trên bản đồ là Hei River), tức sông Amur. Cả nước Kim của Hoàn Nhan A Cốt Đả (Wanyan Aguda) và nước Kiến Châu của Ái Tân Giác La Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Aisin Gioro Nurhaci) đều khởi lên ở miền này.

Thành Nam Kinh của nước Liêu trong bản đồ, có lẽ chính là nơi mà Tiêu Phong làn Nam Viện đại vương chăng? Tại hạ ko biết "Hsi-chin" phiên âm Hán Việt là gì. Nhưng từ Nam Kinh đến Nhạn môn quan (trong bản đồ là Ying-men-kuan) khá xa về phía tây, và nếu người Khiết Đan đánh Tống thì phải đánh từ vùng Nam Kinh này chứ ko phải ở phía tây.
 
và thông tin nước KIM from http://vi.wikipedia.org/


Nhà Kim (金, pinyin: Jīn; Anchu trong tiếng của người Nữ Chân) tồn tại từ 1115 đến 1234, là vương triều của người Nữ Chân, được sáng lập họ Hoàn Nhan (完顏 Wányán) sáng lập, đây cũng là tổ tiên của những người Mãn Châu đã sáng lập ra triều đại nhà Thanh khoảng 500 năm sau. Được thành lập năm 1115 tại miền bắc Mãn Châu, quốc gia này đã lần lượt xâm lấn và cuối cùng đã tiêu diệt vương triều nhà Liêu của người Khất Đan (Khiết Đan) vào năm 1125 (liên minh cùng nhà Tống để diệt Liêu), những người đã thống trị khu vực Mãn Châu và biên giới phía bắc Trung Quốc trong vài thế kỷ trước. Vào ngày 9 tháng 1 năm 1127 lực lượng nhà Kim đã chiếm Khai Phong, thủ đô của triều đại Bắc Tống, bắt giữ cả hai vua nhà Tống là Tống Khâm Tông, và cha của ông là vua Tống Huy Tông, là người đã từ bỏ ngôi báu do sợ hãi lực lượng nhà Kim. Sau khi Khai Phong thất thủ, lực lượng nhà Tống dưới sự lãnh đạo của nhà Nam Tống kế tiếp vẫn tiếp tục chiến đấu với nhà Kim trong hơn mười năm tiếp theo, cuối cùng đã dẫn đến ký kết hiệp ước hòa bình năm 1141, và cắt toàn bộ miền bắc Trung Quốc cho nhà Kim năm 1142 để đổi lấy hòa bình.
Sau khi chiếm toàn bộ miền bắc Trung Quốc nhà Kim trở nên bị Hán hóa nhiều hơn, chuyển kinh đô từ phủ Hội Ninh (会宁) ở miền bắc Mãn Châu (phía nam của Cáp Nhĩ Tân thuộc tỉnh Hắc Long Giang ngày nay) về Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay). Từ đầu thế kỷ 13 nhà Kim bắt đầu chịu áp lực từ người Mông Cổ ở phía bắc. Năm 1214 nhà Kim chuyển kinh đô về Biện Kinh (tức Khai Phong -kinh đô cũ nhà Tống) để tránh người Mông Cổ; nhưng dưới sức mạnh của đế chế Mông Cổ đứng đầu là đại hãn Oa Khoát Đài (窝阔台), con trai thứ ba của Thành Cát Tư Hãn và tướng Mộc Hoa Lê (Mugali), cũng như liên minh của họ với nhà Nam Tống thì nhà Kim đã sụp đổ vào năm 1234.
Năm 1616, người Mãn Châu dưới sự lãnh đạo của Nỗ Nhĩ Cáp Xích thuộc dòng họ Ái Tân Giác La đã thiết lập triều đại nhà Hậu Kim, lấy tên vương triều của mình theo tên của vương triều này. Nhà Hậu Kim sau đó đổi tên thành nhà Thanh năm 1636 dưới triều vua Thanh Thái Tông (Hoàng Thái Cực), sau đó xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc của nhà Minh và trở thành vương triều cuối cùng của Trung Quốc phong kiến.

[sửa] Phân chia hành chính

Nhà Kim phân chia quốc gia của họ thành ba cấp là lộ, phủ (châu), huyện,trong đó lộ là cấp hành chính lớn nhất,tổng cộng có 19 lộ.
  • Thượng Kinh
  • Đông Kinh
  • Bắc Kinh
  • Tây Kinh
  • Trung Đô
  • Nam Kinh
  • Hà Bắc đông
  • Hà Bắc tây
  • Sơn Đông đông
  • Sơn Đông tây
  • Đại Danh phủ
  • Hà Đông bắc
  • Hà Đông nam
  • Kinh Triệu phủ
  • Phượng Tường
  • Phu Duyên
  • Khánh Nguyên
  • Lâm Thao
  • Hàm Bình
[sửa] Các vua nhà Kim

Nhà Kim trải qua mười đời vua như bảng dưới đây.
Miếu hiệu Thụy hiệu Tên Thời gian Niên hiệu Kim Thái Tổ Hoàn Nhan A Cốt Đả 1115-1123 Thu Quốc (115-1116)
Thiên Phụ (1117-1123) Kim Thái Tông Hoàn Nhan Ngô Khất Mãi hay Hoàn Nhan Thịnh 1123-1135 Thiên Hội (1123-1134) Kim Hi Tông Hoàn Nhan Đản hay Hoàn Nhan Hợp Lạt 1135-1149 Thiên Hội(1135-1138)
Thiên Quyến (1138-1141)
Hoàng Thống (1141-1149) Hải Lăng Vương Hoàn Nhan Lượng 1149-1161 Thiên Đức (1149-1153)
Trinh Nguyên (1153-1156)
Chính Long (1156-1161) Kim Thế Tông Hoàn Nhan Ung 1161-1189 Đại Định (1161-1189) Kim Chương Tông Hoàn Nhan Cảnh 1190-1208 Minh Xương (1190-1196)
Thừa An (1196-1200)
Thái Hòa (1200-1208) Vệ Thiệu Vương hay Vệ Vương Hoàn Nhan Vĩnh Tế 1209-1213 Đại An (1209-1212)
Sùng Khánh (1212-1213)
Chí Ninh (1213) Kim Tuyên Tông Hoàn Nhan Tuần 1213-1223 Trinh Hữu (1213-1217)
Hưng Định (1217-1222)
Nguyên Quang (1222-1223) Kim Ai Tông Hoàn Nhan Thủ Tự 1224-1234 Chính Đại (1224-1232)
Khai Hưng (1232)
Thiên Hưng (1232-1234) Mạt Đế Hoàn Nhan Thừa Lân 1234
 
Web KT

Bài viết mới nhất

Back
Top Bottom