Đô Kỳ - Đông Đô (Hưng Hà - Thái Bình) đang được coi là nơi sinh hạ vua Lê Thánh Tông! (1 người xem)

Liên hệ QC

Người dùng đang xem chủ đề này

nguyenthithuhhtb

Thành viên hoạt động
Tham gia
30/1/12
Bài viết
163
Được thích
520
Nghề nghiệp
7 nghiệp
Vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) là một vị vua nổi tiếng anh minh trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Tuy nhiên, nhà vua sinh ở đâu, kinh thành hay tại một vùng quê nào khác trên đất Việt vẫn còn là vấn đề mà đến nay còn nhiều tranh cãi giữa các sử gia và những người nghiên cứu về vương triều Lê. Nơi sinh của nhà vua vẫn còn là câu hỏi lớn.

ĐVSKTT, kỷ nhà Lê quyển 7 – Tr.239 có ghi “Năm Thái Hòa, phong Tư Thành làm Bình Nguyên Vương vào ở kinh sư, vâng làm Thiên Vương hàng ngày cùng với các thân vương ở Kinh Diên học tập”... “Nghi dân phong cho Tư Thành làm Gia Vương, cho phủ riêng ở bên hữu nội điện” (SĐD).

Rõ ràng ĐVSKTT đã kín đáo mách bảo cho chúng ta biết một thông tin rất quan trọng với 4 từ “Vào ở kinh sư” (Kinh sư tức là kinh thành, nơi vua và triều đình sinh sống). “Sử ký toàn thư” do Ngô Sỹ Liên biên soạn được hoàn thành vào khoảng năm Hồng Đức thứ 10 (1479) triều vua Lê Thánh Tông. Người xưa viết sử thường rất kiệm lời, câu văn ngắn gọn mà ý tứ sâu xa, hàm chứa nhiều nghĩa rộng khắp mà lớn lao vô cùng.


2.JPG

Cầu Chay - xã Văn Cẩm và làng Sâm (Đông Đô), tương truyền vua Lê Thánh Tông đẻ ở đây

Giả sử vua Lê Thánh Tông sinh ở chùa Huy Văn thì không bao giờ ĐVSKTT lại ghi như đã dẫn ở trên? Vì chùa Huy Văn ở ngay trong kinh thành (kinh sư)! Mà đã ở trong kinh sư thì việc gì các sử gia thời Lê lại ghi “Vào ở trong kinh sư” – đây quả là điều vô lý. Như vậy, căn cứ theo những dòng tư liệu trên thì vua Lê Thánh Tông không sinh ở trong cung, mà người sinh ở nơi nào đó bên ngoài kinh thành, năm lên 3 tuổi mới được “vào ở kinh sư ” – vào cung học tập.

Vậy bà Ngô Thị Ngọc Dao sinh hoàng tử Tư Thành ở trong cung rồi mới ra chùa Huy Văn? Hay khi bà ra chùa Huy Văn rồi mới sinh hoàng tử Tư Thành? Hay bà sinh hoàng tử Tư Thành ở một nơi nào khác ngoài kinh thành? Có một điều rất rõ ràng đó là bản thân Tư Thành đã có một thời gian sống với mẹ ở chùa Huy Văn, nhưng ở vào giai đoạn nào thì vẫn là vấn đề nan giải. Nhiều khả năng sau khi sinh ra hoàng tử Tư Thành một thời gian (khoảng 2 đến 3 năm) thì mẹ con bà Tiệp dư mới về sống ở chùa Huy Văn khi hoàng tử Tư Thành được vua Lê Nhân Tông phong làm Bình Nguyên Vương.

Như vậy, hoàng tử Tư Thành nếu không sinh ở trong cung thì sinh ra ở đâu? Các tư liệu lịch sử cho chúng ta biết, khi vua Lê Thái Tổ băng hà, hoàng tử Nguyên Long – (Lê Thái Tông) lên kế vị lúc đó chưa tròn 9 tuổi.

Sau này vua Thái Tông có khá nhiều phi tần, trong đó có 3 người được vua sủng ái là bà Phi Dương Thị Bí, Nguyên phi Nguyễn Thị Ngọc Anh và Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao. Lúc đó, Dương Thị Bí đã sinh hoàng tử Nghi Dân và được vua lập làm Thái tử, Nguyễn Thị Ngọc Anh cũng đã sinh hoàng tử Bang Cơ. Do sự dèm pha, vu khống của Nguyễn Thị Ngọc Anh, vua Thái tông phế bỏ Dương Thị Bí làm dân thường, truất ngôi Thái tử của Nghi Dân, chỉ phong làm Lạng Sơn vương, lập Bang Cơ làm Thái tử.

Theo các tư liệu điền dã, truyền thuyết và phả ký của dòng họ Đinh ở Thanh Hóa, Đô Kỳ - Đông Đô, Hưng Hà, Song An (Sáo Đền – Vũ Thư) và “Ngô gia” thế phả thì chuyện Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao nằm mơ thấy tiên đồng đầu thai khi bà đang mang thai đã đến tai của Nguyên phi Nguyễn Thị Ngọc Anh. Chính vì lí do đó mà Tiệp Dư đã bị Nguyên Phi tìm cách hãm hại vì sợ sau này ngai vàng rơi vào tay con của Tiệp dư. Nguyên phi đã phế truất Ngô Thị Ngọc Dao xuống chức Tu dung (người quản các nữ hầu của vua).


4_1.JPG


Đền thờ bà Vú, người đỡ đẻ và nuôi vua Lê Thánh Tông tại làng Sâm (Đông Đô- Hưng Hà)

Để cứu bà Tiệp dư chắc hẳn vợ chồng Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ và một số trung thần đã phải can ngăn vua Thái Tông nhiều lần nên cuối cùng nhà vua: “Đồng ý chờ sau khi bà Tiệp Dư sinh nở xong thì sẽ tính sau”. Sau này cũng chính bà Nguyễn Thị Lộ cùng với Đinh Liệt, Nguyễn Xí... tìm cách đưa Tiệp dư Ngô Ngọc Dao trốn khỏi kinh thành khi sắp đến kỳ sinh nở. Phải chăng đó mới là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết thê thảm của vợ chồng Nguyễn Trãi và dòng họ ông sau này.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng Hoàng tử Lê Tư Thành được sinh ở chùa Huy Văn. Thực tế tình hình cung đình lúc đó khó có khả năng hoàng tử được sinh ra ở đây. Vì chùa Huy Văn là nơi nhiều người biết đến, lại ở ngay trong kinh thành sẽ không tránh khỏi sự dòm ngó của Nguyên phi Nguyễn Thị Ngọc Anh và người cùng phe cánh với bà. Xét về khía cạnh tín ngưỡng chúng ta cũng thấy việc sinh đẻ ở trong chùa là điều mà nhân dân ta từ xưa đến nay đều rất kiêng kị.

Giả sử nếu hoàng tử được sinh ở trong chùa thì liệu có giấu được Nguyên phi Nguyễn Thị Ngọc Anh hay không? Và hoàng tử liệu có thể sống yên thân để sau này lên làm vua được không? Chắc chắn rằng khó có thể chuyện hoàng tử sinh ở chùa Huy Văn, đấy là chưa nói đến việc uy tín, sự ảnh hưởng của các nhà sư trong chùa trước dư luận xã hội khi có người sinh con ở trong chùa. Và liệu phe cánh của Hoàng Thái Hậu có để cho các nhà sư sống yên thân để tu hành ở chùa Huy Văn hay không? Chắc hẳn là không. Vậy rõ ràng chúng ta có thể tin rằng hoàng tử Tư Thành không sinh ở chùa Huy Văn.

Vậy hoàng tử sinh ở đâu? Nơi ấy phải xa kinh thành và thuộc phạm vi quyền hạn quản lý của một đại thần giữ chức vị cao trong triều hay của người có quyền thế, quyền lực thì mới đảm bảo an toàn được cho mẹ con Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao. Căn cứ vào Phả ký “Ngô Gia thế phả”, “Đinh tộc thế phả” - ở Đông Đô, “Ngọc phả họ Đinh” và “Gia phả họ Đinh” ở Thanh Hoá giúp chúng ta tìm ra được nơi mà hoàng tử Tư Thành ra đời: Đó là làng Đô Kỳ, thuộc đất Thần Khê - Diên Hà xưa – nay là xã Đông Đô, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Căn cứ vào các cuốn phả nêu trên, đặc biệt là Gia phả họ Đinh ở làng Đô Kỳ và Gia phả họ Đinh ở xã Bình Lăng, Hưng Hà (đây là phả một chi của Lân quốc công Đinh Liệt – khai quốc công thần Triều Lê) đều cho chúng ta biết rất rõ việc đón bà Ngô Thị Ngọc Dao (đã gần đến ngày sinh đẻ) về Đô Kỳ lánh nạn Phạm Đồn là có thật.

Nhưng tại sao bà Ngọc Dao lại được vợ chồng Nguyễn Trãi và Đinh Liệt bí mật đưa về sống ở Đô Kỳ? Vào thế kỷ thứ 15 đến đầu thế kỷ thứ 19, vùng đất Đông Đô, Tây Đô, Bình Lăng thuộc hai huyện Duyên Hà và Thần Khê phủ Tiên Hưng - trấn Sơn Nam Hạ. Vào thời kỳ đó làng Mậu Lâm và Đô Kỳ còn tồn tại dưới địa danh là hai xã. Xã Mậu Lâm gồm làng Sâm và làng Sành; xã Đô Kỳ gồm làng Duyên Trường, Khánh Lai, An Nội, Phú Lễ, Đồng Phú, Phú Năng. Hai xã trên cùng với xã Đô Mỹ, Y Đún thuộc tổng Y Đún.

Theo gia phả họ Đinh thì khoảng cuối thế kỉ 14 đầu thế kỉ 15 Thủy tổ họ Đinh ở Đô Kỳ là ông Đinh Thỉnh gốc từ làng Thủy Khối (Hoằng Hoá – Thanh Hóa) ra đất Đô Kỳ dạy học. Ở nhà phú ông họ Phạm. Ông Đinh Thỉnh lấy người con gái nuôi của dòng họ này và sinh ra Đinh Tôn Nhân. Sau này Đinh Tôn Nhân tìm về Lam Sơn theo Lê Lợi, ông đã lấy em gái Lê Lợi, sinh ra Đinh Liệt, Đinh Lễ, Đinh Bồ. Đinh Lễ sinh ra Đinh Thị Ngọc Kế. Đinh Lễ bị chết trận, Đinh Thị Ngọc Kế ở với chú ruột là Đinh Liệt. Sau này bà lấy Duyên ý vương Ngô Từ - Một gia thần của Lê Lợi và sinh ra Ngô Thị Ngọc Dao.

Đinh Liệt có hai người con là Đinh Đột và Đinh Thế Hiển. Đinh Thế Hiển sinh ra Đinh Thế Thực và Đinh Thế Biểu. Sau này Đinh Thế Biểu sống ở vùng trang ấp của họ Đinh – chính là ấp Đô Kỳ - Đông Đô – Hưng Hà. Theo gia phả họ Đinh khi bà Ngô Thị Ngọc Dao được Đinh Liệt, Nguyễn Xí bí mật đưa đi lánh nạn đã về ở Đô Kỳ với mẹ đẻ là Ngô Thị Ngọc Kế (lúc này bà Kế đang ở với cháu là Đinh Thế Biểu). Hiện ở Đô Kỳ còn sắc phong thần ghi rõ công lao của Đinh Thế Biểu, ông được phối thờ tại từ đường họ Đinh ở Đô Kỳ. Rõ ràng vào giai đoạn này vùng đất Đô Kỳ - Thần Khê – Diên Hà nằm dưới sự kiểm soát của thế lực họ Đinh. Đây lại là nơi rất xa kinh đô, ở vùng hoang vắng, hoàn toàn kín đáo.

Việc các công thần nhà Lê chọn đất Đô Kỳ là nơi lánh nạn của Ngô Thị Ngọc Dao trong khi sắp sinh nở là điều hoàn toàn hợp lý. Tục truyền con sông cầu Chay là biên giới tự nhiên giữa Diên Hà và Thần Khê ở thế kỷ 15. Những người hộ giá bà Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao do Đinh Liệt và Nguyễn Xí cắt cử khi về đến cầu Chay (thôn Gia Lạc – nay thuộc xã Văn Cẩm và bên kia cầu là Mậu Lâm - Đông Đô) thì bà Tiệp Dư lên cơn đau dữ dội, trở dạ mãi mà chưa sinh đẻ được. Lúc đó bà Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao đã sai thắp hương để cầu trời khấn phật mong mẹ tròn con vuông. Lời khấn có câu: “Nếu là con mẹ con cha/ Thì sinh ở đất Diên Hà Thần Khê/ Nhược bằng bác mẹ chẳng sinh/ Thì quăng ra đất Vạn Ninh cho rồi”. (Vạn Ninh đó là chốn yên nghỉ vĩnh hằng – bãi tha ma).

Lời khấn vừa dứt thì bà Ngọc Dao sinh ra một người con trai “tư trời rạng rỡ, thần sắc anh dị, tuấn tú, sáng suốt, chững chạc, thực là bậc thông minh” Bà đặt tên con là Tư Thành.

Tại thôn Mậu Lâm (nay thuộc xã Đông Đô) hiện còn đền thờ bà Vú Sữa. Theo thần tích, thần phả và truyền thuyết dân gian thì bà vú có tên là Hoàng Thị Hiến, người ở làng Mậu Lâm đã giúp Tiệp dư khi sinh nở hoàng tử, được mẹ tròn con vuông. Bà Hiến vốn nổi tiếng trong vùng về tài đỡ đẻ và tài chữa bệnh bằng lá cây, dược thảo. Tương truyền bà cũng chính là người đã cho hoàng tử bú sữa ngay sau khi người vừa mới sinh ra.

Sau khi bà Vú Sữa chết, vua Lê Thánh Tông đã chuẩn cho dân làng lập đền thờ, đèn hương phụng sự, triều đình đã cấp cho dân làng Mậu Lâm 17 mẫu ruộng để thu lộc hàng năm cúng tế bà. Trong đền có bức đại tự ghi: “Trung Nghĩa Nữ”. Các triều vua đời sau đều có sắc phong là: “Thanh (Thánh) Cung Trinh Kỳ Hộ Quốc”. Trong Đền còn lưu các đôi câu đối: “Nhũ mẫu linh đơn phù nhi nữ/ Danh thơm mậu địa cổ kim lai” và “Trinh thục mẫu nghi lưu bất hủ/ Nữ trung đoan chính thế vô cương”. Còn có: “Hiển hách Lê triều thiên hạ mẫu/ Cung linh việt địa nữ trung tiên”.

Cũng theo gia phả họ Đinh thì sau khi sinh nở bà Ngọc Dao được đưa về sống tại Đô Kỳ. Tại đây, dòng họ Đinh đã tìm được hai người nhũ mẫu trông nom nuôi dưỡng chăm sóc mẹ con hoàng tử. Đền thờ hai bà nhũ mẫu hiện còn ở Đô Kỳ và Y Đún.

Ở làng Đô Kỳ ngày nay còn 2 cây thị cổ thụ có tuổi đời trên 500 năm. Theo phả họ Đinh ở Thanh Hóa ghi lại thì chính Đinh Liệt là người trồng hai cây thị này ở trước cửa chùa làng, khi ông bí mật đưa Ngô Thị Ngọc Dao về sống tại Đô Kỳ.

5.jpg

Đền thờ Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, thân mẫu vua Lê Thánh Tông tại làng Đô Kỳ, Đông Đô, Hưng Hà, Thái Bình.

Chuyện hoàng tử Tư Thành sống lưu lạc ở Thần Khê - Diên Hà cuối cùng cũng bị lộ. Thái hậu Nguyễn Thị Ngọc Anh cho bắt giam Đinh Liệt. Sau này do có sự tấu trình của các trung thần nên triều đình đã cho đón hoàng tử Tư Thành về kinh và phong làm Bình Nguyên Vương (khi đó hoàng tử mới 2-3 tuổi). Sau một thời gian bị giam cầm, vợ chồng Đinh Liệt mới được Thái hậu thả ra khỏi nhà giam.

Gia phả họ Đinh ở Đô Kỳ có viết: Khi vua Lê Thánh Tông đánh thắng quân Chiêm Thành trở về, bà Ngô Thị Ngọc Dao đi đón con. Trên đường về kinh bà có nhắc tới chuyện xưa khi đi lánh nạn ở Đô Kỳ. Nhà vua đã cho dựng đền thờ Ngoại tổ mẫu ở Đô Kỳ, Bình Lăng, Sáo Đền – Song An và đền thờ các bà Vú đã có công nuôi dưỡng mình khi còn ấu thơ. Hiện ở làng Đô Kỳ còn đền thờ bà Ngô Thị Ngọc Dao.

Trong đền có bức Đại tự Lê Triều Quốc Mẫu, cạnh đền có một ngôi chùa cổ, ở phía trước chùa là hai cây thị già hơn 500 năm tuổi. Tương truyền trước đây chính là nơi vua Lê Thánh Tông đã xây cho mẹ một hành cung ở Đô Kỳ và đặt tên “Dụ Phúc Đường”. Sau này khi bà mất dân làng và dòng họ Đinh đã tu sửa thành ngôi đền để thờ bà gọi là đền Bà Quốc Mẫu.

Hiện trong Từ đường họ Đinh ở Bình Lăng, Đông Đô còn lưu đôi câu đối: “Quốc Sử lưu bi, địa kế thúy đình thang mộc ấp/ Thần Châu (Khê) hưng nhượng, danh trì Mỹ lý dịch di hương” (Tạm dịch: Quốc sử lưu bia đá, ấp thang mộc nơi đây kế tiếp với đất Thúy (Thúy Cối, quê gốc họ Đinh). Huyện Thần Khê khôi phục ngôi vua, danh vang làng Mỹ nay còn thơm đến cháu con.

Hiện ở làng Đô Kỳ còn có 4 miếu ở 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Các miếu trên được xây dựng ở rìa làng. Dân làng truyền rằng xưa vẫn gọi là Tứ Trấn hoặc Tứ Phủ. Đền thờ bà Ngô Thị Ngọc Dao được xây dựng ở giữa làng. Cạnh đền là ngôi chùa cổ tương truyền do ông Đinh Liệt cho xây dựng.

Sau này khi vua Lê Thánh Tông lên ngôi vua, vùng đất này được mang địa danh là Đô Kỳ. Căn cứ vào các thần tích, thần phả của các chi dòng họ Đinh và đền thờ Lê Triều Quốc Mẫu, đền bà Vú còn tồn tại trên đất Đô Kỳ ngày nay cùng với các sắc phong của các triều đại phong kiến trước đây, chúng ta có thể tin rằng đất làng Sâm, Đô Kỳ - Tổng Y Đún xưa chính là nơi sinh của Hoàng tử Tư Thành – vua Lê Thánh Tông sau này. Đây cũng là nơi mà Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao ẩn tránh sự truy đuổi của Thái hậu Nguyễn Thị Ngọc Anh và vây cánh.

(Nguồn: http://thanhhoatructuyen.com/tintuc.../Phat-hien-noi-sinh-ha-vua-Le-Thanh-Tong-503/)
 
Lần chỉnh sửa cuối:
Web KT

Bài viết mới nhất

Back
Top Bottom