Hoá đơn thông thường có phần VAT ở trong đó không?

Liên hệ QC

nguyenmanhnam

Thành viên tiêu biểu
Tham gia
24/7/10
Bài viết
434
Được thích
266
Theo quy định khi mua hàng hoá dưới 100.000 đồng thì có thể dùng hoá đơn thông thường (tất nhiên nếu là doanh nghiệp thì sẽ không được hoàn thuế VAT khi sử dụng hoá đơn này rồi), nhưng em muốn hỏi là mặc dù không thể hiện riêng phần thuế VAT là bao nhiêu, nhưng trong giá bán hàng ở hoá đơn thông thường đã tính phần VAT vào đó chưa? bởi nếu không có thì Nhà nước thất thu lớn àh? (vì xét tổng xã hội mua những hàng hoá dưới 100.000 đồng là rất lớn). Vì mới tìm hiểu về lĩnh vực này em chưa hiểu lắm, mong được sự trợ giúp của các anh chị
 
Theo quy định khi mua hàng hoá dưới 100.000 đồng thì có thể dùng hoá đơn thông thường (tất nhiên nếu là doanh nghiệp thì sẽ không được hoàn thuế VAT khi sử dụng hoá đơn này rồi), nhưng em muốn hỏi là mặc dù không thể hiện riêng phần thuế VAT là bao nhiêu, nhưng trong giá bán hàng ở hoá đơn thông thường đã tính phần VAT vào đó chưa? bởi nếu không có thì Nhà nước thất thu lớn àh? (vì xét tổng xã hội mua những hàng hoá dưới 100.000 đồng là rất lớn). Vì mới tìm hiểu về lĩnh vực này em chưa hiểu lắm, mong được sự trợ giúp của các anh chị

Hđ thông thường thì không có thuế VAT, Chỉ có Hđ GTGT là có thuế thôi!!!
Khi DN bán ra xuất Hđ thông thường thì DN không đóng thuế VAT, lúc đó DN ghi nhận Doanh thu để đóng thuế TNDN, như vậy thì Nhà Nước vẫn thu được tiền thuế khi DN bán hàng mà không xuất Hđ VAT.
 
Hđ thông thường thì không có thuế VAT, Chỉ có Hđ GTGT là có thuế thôi!!!
Khi DN bán ra xuất Hđ thông thường thì DN không đóng thuế VAT, lúc đó DN ghi nhận Doanh thu để đóng thuế TNDN, như vậy thì Nhà Nước vẫn thu được tiền thuế khi DN bán hàng mà không xuất Hđ VAT.

Theo mình thì ý kiến của bạn chưa chính xác nếu bạn để ý tại Điều 11 cùa Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 khi áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng thì bạn sẽ suy ra là phương pháp này dùng phần lớn cho doanh nghiệp kê khai chưa đầy đủ điều kiện để tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ (đây là phương pháp đúng đắn và tiên tiến nhất).
Tôi trích dẫn cho bạn một bài viết mà tôi sưu tầm được của TS.Nguyễn Văn Vân & Th.S.Nguyễn Thị Thuỷ - Đại học Luật TP.HCM như sau:
Theo pháp luật thuế GTGT hiện hành, chỉ khi những đơn vị nào nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ mua hàng hoá, dịch vụ của những đơn vị cũng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ và có lập hoá đơn GTGT hợp pháp thì mới có khả năng được khấu trừ thuế đầu vào một cách chính xác số thuế GTGT thực tế phát sinh theo đúng bản chất của thuế GTGT (tên gọi thuế GTGT chỉ đúng duy nhất trong trường hợp này). Những trường hợp khác còn lại, tức đơn vị nộp thuế theo phương thức khấu trừ mua hàng hoá của đơn vị nộp thuế theo phương thức trực tiếp, hoá đơn đầu vào hợp pháp nhưng không là hoá đơn GTGT mà là hoá đơn bán hàng, thì đối tượng nộp thuế không được khấu trừ hoặc chỉ khấu trừ theo một tỷ lệ ấn định mang tính chủ quan. Một khi là sự ấn định chủ quan thì không phản ánh được phần giá trị tăng thêm thực tế để làm cơ sở xác định số thuế phải nộp, vì vậy trường hợp này đi ngược lại bản chất thuế GTGT mà thực chất chỉ là một phiên bản của thuế doanh thu. Trong khi đó đối với những trường hợp mua hàng là nông sản thực phẩm chưa qua chế biến không có hoá đơn chứng từ mà chỉ cần bảng kê khai (hầu như không có giá trị pháp lý) thì được khấu trừ khống theo tỷ lệ nhất định. Một thực tế trớ trêu là số thuế đầu vào không có thật thì được khấu trừ còn số thuế đầu vào có thật thì không được khấu trừ hoặc chỉ khấu trừ một phần. Quan niệm rằng: mọi chủ thể kinh doanh đều phải được bình đẳng, tức là nếu khi mua hàng họ phải tạm nộp thuế GTGT thì họ phải được khấu trừ, hoàn thuế. Muốn vậy, phải nhanh chóng tiến tới một phương pháp tính thuế thống nhất, một loại hoá đơn thống nhất, trả lại đúng bản chất của thuế GTGT. Cần xác định rằng phương thức tính thuế trực tiếp chỉ là tạm thời, tình thế. Nên chăng cần đưa ra một lộ trình nhất định để các đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp chuẩn bị chuyển sang phương pháp khấu trừ.
Do đó có thể thấy Giá trị gia tăng phải nộp thuế = Giá bán của hàng hoá, dịch vụ (đã tính cả thuế VAT rồi)-giá mua đầu vào của hàng hoá dịch vụ (đã có thuế VAT rồi). Tức là hoá đơn thông thường tuy không tách riêng phần VAT ra nhưng doanh nghiệp bán hàng hoá dịch vụ vẫn phải tính của VAT trong đó để nộp cho Nhà nước theo phương pháp trực tiếp.
Theo ý kiến của mình sau khi nghiên cứu như vậy, mong các thành viên khác góp ý thêm
 
Lần chỉnh sửa cuối:
Bổ sung ý kiến của PhanHanhDai:

Doanh nghiệp xuất hoá đơn bán hàng (không phải hoá đơn GTGT), vẫn phải nộp thuế GTGT như thường. Số thuế phải nộp ấn định bằng 1 tỷ lệ % theo ngành, tính trên Giá trị Gia Tăng. Giá trị GT lại là 1 tỷ lệ % trên Doanh thu theo ngành.

Thí dụ ngành SX A quy định:
- GTGT là 25% doanh thu
- Mức thuế suất thuế GTGT là 10%

Vậy cuối tháng khi DN làm báo cáo thuế GTGT thì tự động đi nộp thuế GTGT bằng 2.5% Doanh thu khai thuế.
Thuế TN DN cũng tính tương tự. Thí dụ ngành A quy định lãi 12%, thuế TN 25% thì cứ thế mà nộp thuế TNDN = 3% Doanh thu khai thuế. Ai lãi ít hơn 12% hoặc lỗ cũng ráng chịu, ai biểu làm ăn dở hơn người ta cùng ngành!

Đừng ai lo cho nhà nước bị thất thu nhé!.
 
Lần chỉnh sửa cuối:
Xin được hỏi thêm

Cảm ơn các bác đã chỉ giúp, không phải em lo thất thu cho nhà nước đâu mà em chỉ muốn tìm hiểu về bản chất lý thuyết của thuế thôi. Em muốn hỏi thêm là nhà nước đẻ ra thuế thu nhập cá nhân có phải là mục đích khắc phục hạn chế phần nào của thuế thu nhập doanh nghiệp không ạh? (ví dụ doanh nghiệp muốn trốn thuế thu nhập doanh nghiệp bằng cách khai tăng chi phí tức là tăng lương cao cho lãnh đạo, cán bộ trong công ty, nhưng khi đó lãnh đạo, cán bộ trong công ty đó lại phải nộp thuế TN cá nhân).
 
"Em muốn hỏi thêm là nhà nước đẻ ra thuế thu nhập cá nhân có phải là mục đích khắc phục hạn chế phần nào của thuế thu nhập doanh nghiệp không ạh?"

Mời bạn xem bài viết dưới đây nhé! Tôi copy trên "Tạp chí thuế"
Thuế TNCN đối với hộ kinh doanh: Doanh thu cao nhưng nghĩa vụ thuế giảm
24/03/2009
Thuế giá trị gia tăng (GTGT) là loại thuế gián thu, có diện điều chỉnh rộng đối với tất cả các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh khi bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ có phát sinh doanh thu. Theo đó, các hộ kinh doanh đã thực hiện mở sổ sách kế toán (theo chế độ kế toán đơn giản), sử dụng hóa đơn bán hàng, thực hiện nộp thuế theo kết quả kinh doanh kê khai. Đối với các hộ kinh doanh chưa thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ, áp dụng tính thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) ấn định trên doanh thu, còn gọi là thuế khoán và mức khoán thường ổn định trong thời gian từ 6 tháng đến 1 năm.
Tuy nhiên, với thời gian, chính sách điều tiết thuế TNDN đối với hộ kinh doanh đã không còn phù hợp, phát sinh những nhược điểm không thể phủ nhận. Đầu tiên là các cá nhân có cùng một mức thu nhập, nhưng nếu là cá nhân kinh doanh thì thu nhập sau khi trừ chi phí liên quan đến kinh doanh phải nộp thuế TNDN với thuế suất toàn phần 28%; còn đối với cá nhân có thu nhập từ tiền lương áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần với thuế suất thấp nhất 10%, thuế suất cao nhất 40%. Bên cạnh đó, thu nhập của cá nhân kinh doanh phải nộp thuế ngay từ đồng đầu tiên, trong khi thu nhập từ tiền lương, tiền công chỉ chịu thuế đối với phần thu nhập vượt trên mức khởi điểm (5 triệu đồng đối với người Việt Nam hoặc 8 triệu đồng đối với người nước ngoài). Qui định này dẫn đến hệ quả là, với cùng mức thu nhập 10 triệu đồng/tháng, cá nhân có thu nhập từ kinh doanh phải nộp thuế 28% trên thu nhập, tương đương 2,8 triệu đồng, cá nhân có thu nhập từ tiền lương nộp 0,5 triệu đồng tức là 5% trên thu nhập. Ngược lại, cá nhân có mức thu nhập đến 100 triệu đồng/tháng thì người có thu nhập từ tiền lương nộp thuế 31,5% trên thu nhập, người có thu nhập từ kinh doanh chỉ nộp 28% trên thu nhập. Do đó, nếu so sánh tương quan giữa các cá nhân kinh doanh thì thấy rõ mâu thuẫn phát sinh đó là, chính sách thuế đang điều tiết cao đối với người có thu nhập thấp, điều tiết thấp đối với người có thu nhập cao. Ngoài ra, với các hộ gia đình là thể nhân kinh doanh có qui mô nhỏ, không phải là doanh nghiệp (pháp nhân kinh doanh) nên việc động viên thu nhập như doanh nghiệp là không phù hợp. Chính bởi những bất cập này mà việc đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN áp dụng thống nhất biểu thuế luỹ tiến từng phần, được giảm trừ gia cảnh, được trừ các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo như cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công, là hợp lý.
Kinh nghiệm của các nước khi xây dựng chính sách động viên về thuế đã cảnh báo rằng, “thuế suất cao là giấy mời cho sự trốn và lậu thuế”. Thật vậy, hộ kinh doanh ở Việt Nam là những hộ nhỏ, doanh thu thấp, nếu phải chịu thuế suất 28% như doanh nghiệp có doanh thu hàng trăm triệu, hàng tỷ đồng là bất hợp lý, không công bằng và hậu quả là nhiều hộ kinh doanh đã đối phó với mức thuế suất cao bằng cách khai thấp doanh thu để đảm bảo vừa nộp được thuế, vừa có lãi. Thực tế ở Việt Nam cũng đã chứng minh, nếu mức điều tiết thuế hợp lý, thì các hộ kinh doanh sẽ tự giác kê khai và tăng cường tính tuân thủ hơn. Chẳng hạn, việc sửa đổi Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao năm 2004 với sự điều chỉnh nâng khởi điểm chịu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao mức từ trên 3 triệu đồng/tháng lên trên 5 triệu đồng/tháng. Kết quả là số thu không giảm mà còn tăng (năm 2004 số thu thuế: 3.700 tỷ; năm 2005: 4.400 tỷ đồng; năm 2008 trên 10.000 tỷ đồng). Tương tự, việc chuyển đổi hình thức thu từ thuế TNDN sang thuế thu nhập cá nhân (TNCN), nguồn thu sẽ chuyển biến theo hướng tổng số thu không đổi mà thay đổi cơ cấu nguồn thu, tức là sẽ tăng nguồn thu từ thuế GTGT và giảm nguồn thu từ thuế TNCN.
Ví dụ: Hộ kinh doanh đang thực hiện mức thuế khoán phải nộp số thuế hàng tháng trong năm 2008 là 1,44 triệu đồng (thuế GTGT là 0,6 triệu đồng; thuế TNDN là 0,84 triệu đồng), tương ứng với mức doanh thu khoán hàng tháng là 10 triệu đồng. Nay chuyển sang nộp thuế TNCN, hộ kinh doanh được trừ gia cảnh, áp dụng thuế luỹ tiến từng phần, nên động viên hộ khai đúng doanh thu hơn. Giả sử nâng doanh thu lên gấp đôi là 20 triệu đồng thì kết quả tính thuế như sau:
- Thuế GTGT là 20 triệu x 60% (tỷ lệ GTGT theo mức khoán) x 10% (thuế suất) = 1,20 triệu đồng
- Thuế TNCN: Thu nhập chịu thuế là 20 triệu x 30% (tỷ lệ TNCT ấn định) = 6 triệu đồng. Giả sử hộ gia đình này có nuôi 1 người phụ thuộc thì được giảm trừ gia cảnh là 5,6 triệu đồng (4 triệu + 1,6 triệu), do đó số thuế TNCN phải nộp là (6 triệu - 5,6 triệu) x 5% = 0,02 triệu đồng.
Như vậy, tổng số thuế phải nộp của hộ này là 1,22 triệu đồng = 1,2 triệu đồng thuế GTGT + 0,02 triệu đồng thuế TNCN. Trường hợp hộ kinh doanh phải nuôi 2 người phụ thuộc thì được giảm trừ 7,2 triệu, trong khi đó thu nhập chịu thuế chỉ có 6 triệu nên chủ hộ kinh doanh này không phải nộp thuế TNCN.
Với ví dụ trên, tổng số thuế phải nộp tính theo chính sách thuế TNCN đối với hộ kinh doanh còn thấp hơn so với tính theo thuế TNDN. Theo đó, số thuế GTGT sẽ chuyển từ nộp 0,6 triệu lên nộp 1,2 triệu đồng, còn thuế TNDN nộp từ 0,84 triệu, xuống nộp thuế TNCN là 0,02 triệu đồng; nếu nuôi 2 người phụ thuộc thì không phải nộp thuế TNCN. Với việc chuyển đổi hình thức thu, nghĩa vụ thuế của hộ kinh doanh không thay đổi, đồng nghĩa với việc thay đổi chính sách thuế TNCN có thể không tăng nguồn thu ngân sách, nhưng đạt được ý nghĩa to lớn về nhiều mặt, vừa khuyến khích hộ cá thể tự giác kê khai doanh thu sát với thực tế kinh doanh, vừa đáp ứng yêu cầu quản lý của cơ quan chức năng. Đó cũng là những tiêu chí xác đáng về tình hình hoạt động của lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho Chính phủ trong việc quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô đạt hiệu quả./.
Tạp Chí Thuế
 
Lần chỉnh sửa cuối:
Web KT

Bài viết mới nhất

Back
Top Bottom